Du học Mỹ không còn là quá xa lạ đối với học sinh Việt Nam. Rất nhêều bạn lựa chọn Mỹ là nơi học đại học. Dưới đây chúng tôi xin tóm tắt những nét khác biệt cơ bản giữa giáo dục đại học cấp cử nhân ở Mỹ và ở Việt Nam hiện nay. Những nét cơ bản này dựa vào so sánh chương trình học kinh tế ở Việt Nam và chương trình học khoa học cơ bản, xã hội hoặc nhân văn.
1. Chương trình học ở Việt Nam quá dài
Thời gian học 4 năm ở lớp tại Việt Nam là 2.183 giờ so với 1.380 giờ ở Mỹ. Như vậy chương trình ở Việt Nam dài hơn gần 60%. Điều này có thể là do thiếu sách vở nên thầy phải vào lớp đọc cho trò chép hoặc là thói quyen từ quá khứ để lại. Với thời gian ngồi lớp như vậy, học sinh sẽ còn ít thì giờ để tự học, nghiên cứu.
2. Chương trình ở Việt Nam không phải là dạy nghề cũng không phải là đào tạo một người có kiến thức sâu và tính sáng tạo
Chương trình học kinh tế ở Việt Nam đòi hỏi 1.451 giờ so với ở Mỹ chỉ đòi hỏi tối thiểu là 480 giờ (tức là 1/3 chương trình đại học), như vậy đòi hỏi học các môn kinh tế gấp 3 lần số giờ ở đại học Mỹ. Nhìn chương trình giảng dạy ở Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh ta thấy, học sinh trong 4 năm phải học gần như tất cả mọi thứ trên đời về kinh tế mà nhà trường có thể nghĩ ra được, từ các môn cơ bản như kinh tế vi mô và vĩ mô, đến các môn như kinh tế lao động, quản trị xí nghiệp, kế toán, địa lý kinh tế, luật kinh tế, dân số học, chính sách thương mại, kinh tế tài nguyên và môi trường, phân tích dự án kinh tế, thị trường chứng khoán, v.v. Đây là những môn ít khi dạy ở cấp đại học 4 năm, và nếu có dạy thì chỉ là những môn để học sinh có thể tự chọn lựa, không bắt buộc; người dạy thường là thầy đã và đang nghiên cứu chuyên sâu về môn học đó. Đòi hỏi mỗi thứ một tí, học sinh không có khả năng hoặc thời gian đi sâu vào bất cứ vấn đề gì và thầy cũng chỉ đọc sách nói lại mà không chắc là đã hiểu. Theo các tài liệu giáo khoa của trường, có thể thấy nội dung giảng dạy rất nặng về lý thuyết mà nhiều phần học sinh ở Mỹ chỉ học trong chương trình sau cử nhân. Như vậy trường chỉ nhằm nhồi sọ kiến thức lý thuyết kinh tế, nhưng đồng thời, việc phân chia chi li các lớp học thì lại có vẻ thực dụng như trường dạy nghề.
3. Chương trình ở Việt Nam không trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản và toàn diện về khoa học tự nhiên, nhân văn, văn chương và nghệ thuật; không có một lớp nào về phương pháp nghiên cứu và viết luận văn
Chương trình ở Mỹ (ở các đại học danh tiếng) đòi hỏi học sinh phải học một chương trình cơ bản, bất kể họ đang học ngành gì – từ khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng, xã hội đến nhân văn. Đây chính là chương trình thể hiện mục đích đào tạo những cá nhân có tri thức cơ bản, có phương pháp suy nghĩ và phân tích các vấn đề, có khả năng viết luận văn nghiên cứu (xem thêm Phụ lục I). Chương trình cơ bản bắt buộc này cũng chiếm 1/3 thời gian học 4 năm như thời gian tối thiểu dành cho ngành học chính. Chúng gồm có những môn như sau:
Chương trình kiến thức cơ bản bắt buộc ở đại học Mỹ
Tín chỉ
(theo chương trình 3 kỳ 1 học một năm) |
Thời gian học
(h) |
|
Hội thảo về phương pháp suy luận, phân tích, nghiên cứu và viết luận văn | 2 | 60 |
Ngoại ngữ hoặc qua kỳ thi sát hạch* | 6 | 180 |
Viết tiếng Anh hoặc qua kỳ thi sát hạch* | 2 | 60 |
Kiến thức cơ bản
Khoa học tự nhiên Quy tắc và phương pháp logic Khoa học xã hội và hành vi Sử học Giá trị (triết học, tôn giáo hoặc đạo đức học) Văn học và nghệ thuật |
1
1 1 1 1 1 |
180 |
Tổng chương trình cơ bản | 16 | 480 |
Tổng chương trình 4 năm | 45-46 | 1.380 |
Nguồn: dựa vào chương trình của Northwestern University
(*Nếu qua được kỳ thi sát hạch, học sinh có thể học ở những lớp cao hơn hoặc học về văn học nước ngoài dạy bằng tiếng nước ngoài, hoặc văn chương tiếng Anh để thay thế).
4. Ở đại học Việt Nam tất cả các môn có tính bắt buộc, học sinh không có quyền tự chọn, ngược lại ở Mỹ học sinh có quyền tự chọn đến 1/3 thời gian học dù học bất cứ ngành chính nào (như toán, vật lý, hoá học, kinh tế, tâm lý, văn chương, vv.)
Việc tự chọn là rất quan trọng để học sinh mở mang kiến thức về nhiều ngành học khác nhau. Việc hiểu biết liên ngành này cho phép học sinh hợp tác nghiên cứu liên ngành, phân tích và nhìn vấn đề không bị cục diện bó hẹp vào chuyên môn của mình. Học sinh đại học với quyền tự chọn có thể chọn hai ngành chuyên môn, hoặc một ngành chính và một ngành phụ (3) . Sau khi ra trường, họ có thể làm việc ở nhiều chuyên môn khác nhau chứ không bị bó vào ngành chuyên môn duy nhất mà họ học ở trường, thậm chí họ có thể thay đổi hoàn toàn để theo một ngành khác. Triết lý giáo dục ở Mỹ cho phép và trang bị cho sinh viên thực hiện việc đổi ngành mà không bị hụt hẫng.
Chương trình 4 năm đại học ở Mỹ
Kiến thức cơ bản bắt buộc (trong đó có những lớp bắt buộc và những lớp tự chọn trong những ngành bắt buộc) | 1/3 chương trình | 680 giờ |
Ngành chính
Phần bắt buộc học Phần tự chọn trong ngành chính |
1/3 chương trình
1/6 chương trình 1/6 chương trình |
680 giờ |
Phần tự chọn trong các ngành khác, học sinh có thể lấy thêm một ngành chính khác, hoặc một ngành phụ và những lớp tự chọn thêm trong ngành chính | 1/3 chương trình | 660 giờ |
Tổng | 1.380 giờ |
- Trong ngành học chính (như toán, vật lý, hoá học, kinh tế, tâm lý, văn chương, vv.), ngoài các lớp cơ bản phải học, học sinh cũng có quyền tự chọn các lớp trong ngành chính, ngược lại học sinh ở Việt Nam phải học tất cả mọi thứ mà nhà trường đã quy định sẵn
Trong ngành chính (major), chẳng hạn như kinh tế, phần bắt buộc học cũng chỉ khoảng 1/2. Học sinh sẽ tự chọn những môn trong ngành kinh tế mà họ thích. Thí dụ về kinh tế, học sinh bị đòi hỏi học những môn sau:
Chương trình bắt buộc trong ngành chính, như môn kinh tế ở Mỹ
Tín chỉ | Giờ | |
Kinh tế vi mô nhập môn | 1 | 30 |
Kinh tế vĩ mô nhập môn | 1 | 30 |
Toán calculus nhập môn | 1 | 30 |
Thống kê cho ngành xã hội nhân văn | 1 | 30 |
Kinh trắc học nhập môn | 1 | 30 |
Kinh tế vi mô trung cấp | 1 | 30 |
Kinh tế vĩ mô trung cấp | 1 | 30 |
Tổng giờ học ngành chính bắt buộc | 210 | |
Giờ học ngành chính tự chọn | 270 | |
Tổng giờ học trong ngành chính | 480 |
- Chương trình về chủ nghĩa Marx – Lenin, chính trị chủ nghĩa xã hội, lịch sử Đảng chiếm 203 giờ, bằng 9% chương trình, quá nặng và cũng là lý do làm tăng số giờ giảng dạy lên tới 2.184
So với tổng giờ học thì việc dạy chính trị Marx – Lenin chiếm 9%, không phải là quá nhiều, nếu như đấy là triết học, chính trị học, luân lý, xã hội học và mỹ học duy nhất cần biết. Nhưng nếu học sinh cần được trang bị thêm về chính trị và triết học khác thì số giờ có thể cắt bớt. Nếu giả thử nhà nước không muốn cắt thì việc canh tân chương trình vẫn có thể thực hiện được.
- Về chương trình canh tân
Do chương trình giảng dạy ở Việt Nam quá dài, vấn đề cắt bớt là cần thiết nhằm tạo thì giờ cho học sinh và thầy giáo nghiên cứu và tự học. Chương trình cắt bớt này có thể giảm hoặc vẫn giữ nguyên giờ học về chủ nghĩa Marx – Lenin. Nếu áp dụng đúng số giờ ở Mỹ thì tổng giờ học sẽ là 1.380, trong đó chỉ có 208 là môn học tự chọn (xem bảng sau). Nếu đưa tổng số giờ cho các môn tự chọn lên bằng ở Mỹ thì tổng số giờ học sẽ lên tới 1.640 giờ, cũng chỉ hơn Mỹ 20%, như vậy là giảm được 25% so với hiện nay. Thời gian theo mô hình Mỹ nhưng giữ nguyên thời gian dạy chính trị như hiện nay
Giờ học 4 năm | |
Chương trình cơ bản | 480 |
Ngành chính (có thể là toán, vật lý, kinh tế,…) | 480 |
Chủ nghĩa Marx – Lenin | 200 |
Tự chọn | 208 |
Tổng | 1.380 |