Đại học ở Mỹ khác gì đại học Việt Nam (tiếp)

  1. Khả năng canh tân chương trình ở Việt Nam

Khả năng canh tân chương trình ở Việt Nam hiện nay bị giới hạn bởi mô hình tổ chức đại học ở Việt Nam.

Trước tiên để hiểu những hạn chế gặp phải cần hiểu về những yếu kém của đại học Việt Nam, và do đó trước tiên cần biết qua về mô hình đại học Mỹ mà các nước trên thế giới hiện nay đang noi theo, kể cả đại học ở Pháp (Xem bài “Tìm hiểu về Đại học Mỹ” của cùng tác giả để biết thêm chi tiết).

Đại học Mỹ (university) có thể đều mang tính tổng hợp, có nhiều trường thành viên (colleges), và mỗi trường lại có nhiều phân khoa khác nhau. Thí dụ Đại học Northwestern có nhiều trường (college) như:

Trường khoa học tự nhiên và nhân văn (school of arts and science, đây là chữ thường dùng cho trường liberal arts, tức là gồm các ngành khoa học cơ bản như toán, vật lý, hoá học, và khoa học nhân văn như sử, kinh tế, chính trị, tâm lý, v.v.)

Trường thương mại (school of business)

Trường sư phạm (school of education)

Trường kỹ sư (school of engineering)

Trường luật

Trường y khoa

Trường âm nhạc

v.v.

Học sinh các trường chuyên nghiệp phải học chương trình kiến thức cơ bản ở Trường khoa học tự nhiên và nhân văn , mặc dù có khi được châm chước giảm thiểu hơn một chút. Nhiều trường chuyên nghiệp chỉ có ở dạng sau cử nhân, tức là học sinh phải học xong Trường khoa học tự nhiên và nhân văn rồi mới được nhận vào: đấy là trường luật, y khoa, và nhiều nơi là trường thương mại với chương trình MBA.

Với tổ chức như trên, Trường khoa học tự nhiên và nhân văn là linh hồn của giáo dục đại học, vì ở đây có thể dễ dàng thực hiện chương trình kiến thức cơ bản, học sinh các ngành khác nhau có thể học chung và có thể lấy những lớp ở những trường hoặc phân khoa (ngành chính) khác trong cùng trường cho chương trình tự chọn không thuộc ngành chính.

Đại học Việt Nam hiện nay vẫn được tổ chức như là những ốc đảo, ốc đảo về tổ chức và ốc đảo về địa lý (theo nghĩa trường nhân văn ở một nơi, trường luật ở một nơi, trường khoa học tự nhiên, như toán, vật lý, hoá học, sinh học, ở một nơi khác). Khi đại học Việt Nam được tổ chức lại thành các đại học quốc gia như Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội thì việc tổ chức lại chỉ ở cái tên, với một lớp quản lý cao hơn ở phía trên, chương trình của đại học đã không tổng hợp lại, học sinh ở trường này không thể lấy lớp ở trường khác và địa dư khác biệt cũng làm cho việc lấy lớp khó khăn. Ốc đảo về tổ chức cũng không cho phép thầy giáo kết hợp, trao đổi và nghiên cứu chung. Việc tổ chức ốc đảo này tiếp tục vì triết lý giáo dục tổng hợp không được thể hiện trong chương trình giảng dạy ở mỗi trường. Mới đây trường kinh tế rút ra khỏi trường đại học quốc gia thành một trường độc lập. Do đó, việc học toán chẳng hạn, nếu học ở những thầy dạy kinh tế thì rõ ràng là học từ một người chỉ biết sơ về toán. Ngược lại, muốn dạy về kinh tế môi trường mà không biết gì về hoá học hoặc nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc không có cơ hội giao lưu với những người ở những ngành này thì mục đích cũng chẳng khác gì nhằm tạo ra những người khiếm thị.

Dù với những trở ngại này, vẫn có thể canh tân chương trình nếu như lấy triết lý giáo dục đại học là đào tạo ra những người có kiến thức cơ bản.

  1. Về một trường đại học chất lượng cao ở Việt Nam

Việc thảo luận về một trường đại học chất lượng cao đã được tiến hành ở nhiều nơi tại Việt Nam. Chất lượng cao đòi hỏi một số điều kiện: (1) giáo viên được trả mức lương thỏa đáng để họ không phải dạy thêm và do đó không được phép dạy thêm, (2) điều kiện về trường sở và phương tiện học từ thư viện, máy tính, phòng thí nghiệm phải đầy đủ, (3) số học sinh trên một giáo viên phải thấp, không quá 20, và tất nhiên là (4) sinh viên có trình độ tiếp thu. Nếu chỉ dựa vào điều (1) tới (3), dự toán về một đại học chất lượng cao với 2.000 sinh viên sẽ là 5 triệu USD về đầu tư, và chi phí hằng năm gần 2 triệu USD. Dự toán này dựa trên một số giả định sau:

Lương bao gồm cả tiền hưu trí và bảo hiểm một giáo sư trung bình là 1.000 USD/một tháng. Có người được trả thấp hơn và có người được trả cao hơn. Đây là dự toán thấp nhất để có thể thuê được một người dạy ra trường ở nước ngoài với bằng tiến sĩ.

Số học sinh cao nhất là 20 trên một giáo sư.

Như vậy tính trung bình, tiền học phí hằng năm lên tới khoảng 1.000 USD để trang trải chi phí thường xuyên. Nếu giảm số sinh viên xuống là 10 trên một giáo viên, học phí lên tới khoảng 2.000 USD một năm. Nhưng vấn đề quan trọng và khó khăn hơn cả trong cả hai trường hợp là khả năng tuyển dụng được 100 đến 200 giáo viên có trình độ tiến sĩ.

Dự toán về một đại học chất lượng cao

Dự kiến    
Số học sinh 2.000  
Giáo viên (1/20) 100  
Lương tháng 1.000  
Lương năm (USD) 1.200.000  
Giá trị tài sản/chi phí hằng năm 2,59  
Tài sản Hệ số USD
Đất và công trình xây dựng 0,67619 3.380.953
Máy móc và sách vở 0,28571 1.428.571
Tiền vốn lưu động để chi phí 0,03810 190.476
Tổng tài sản 1,00000 5.000.000
Chi phí hằng năm    
Lương/hưu trí/bảo hiểm 0,62145 1.200.000
Dụng cụ văn phòng, sửa chữa 0,11467 221.429
Năng lượng 0,14427 278.571
Đi lại cho giáo sư 0,02836 54.762
Chi phí khác (hoạt động sinh viên) 0,09125 176.190
Tổng chi phí thường xuyên 1,00000 1.930.952

Phụ lục. Chương trình đại học 4 năm ngành kinh tế ở Việt Nam

Ở Việt Nam, tiết gồm 45 phút học. Chương trình sau đây là chương trình kinh tế 4 năm đại học ở Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (4) . Tất cả các lớp đều có tính bắt buộc.

 

  2 năm đầu Tiết Tiết Giờ
1 Lịch sử các học thuyết kinh tế 45    
  Quản trị học 45    
  Kinh tế vi mô 60    
  Kinh tế vĩ mô 60    
  Xác suất thống kê 60    
  Kế toán 60    
  Địa lý kinh tế 45    
  Quy hoạch tuyến tính 60    
  Marketing căn bản 45    
  Kinh tế công cộng 30    
  Kinh tế phát triển 30    
  Dân số học 30    
  Luật kinh tế 60    
  Tổng lớp kinh tế   630 473
2 Triết học Marx -Lenin 75    
  Kinh tế chính trị (i) 45    
  Kinh tế chính trị (ii) 30    
  Tổng lớp chính trị   150 113
  Đại số tuyến tính 45    
  Giải tích 60    
  Tin học căn bản 60    
  Tổng lớp toán, tin học   165 124
3 Ngoại ngữ (i) 120    
  Ngoại ngữ (ii) 150    
  Tổng ngoại ngữ   270 203
4 Lịch sử triết học 30    
  Logic học 30    
  Tâm lý học 30    
  Tổng các môn khác   90 68
  Tổng hai năm đầu   1.305 979

 

  2 năm cuối Tiết Tiết Giờ
1 Lịch sử kinh tế quốc dân Việt Nam 45    
  Kinh tế quốc tế (i) 45    
  Lý thuyết thống kê 60    
  Lý thuyết tài chính tiền tệ 75    
  Kinh tế vi mô (ii) 60    
  Phân tích lợi ích và chi phí 45    
  Kinh tế các nước châu Á TBD 45    
  Kinh tế lao động 45    
  Kinh tế quốc tế (ii) 45    
  Dự báo 60    
  Kinh tế vĩ mô (ii) 60    
  Kinh tế phát triển 45    
  Kinh tế nông nghiệp 45    
  Kinh tế tài nguyên và môi trường 45    
  Phân tích kinh tế dự án 45    
  Kinh tế Việt Nam 30    
  Kinh tế công cộng 45    
  Tài chính quốc tế 45    
  Kế hoạch hoá và chính sách kinh tế 45    
  Chính sách thương mại và công nghiệp 45    
  Hạch toán quốc gia 45    
  Tiền tệ và ngân hàng 45    
  Mô hình hoá 45    
  Thị trường chứng khoán 45    
  Làm luận văn      
  Báo cáo hoặc thi 150    
  Tổng kinh tế   1.305 979
2 Lịch sử Đảng 60    
  Chủ nghĩa xã hội khoa học 60    
  Tổng chính trị   120 90
3 Ngoại ngữ (i) 60    
  Ngoại ngữ (ii) 60    
  Tổng ngoại ngữ   120 90
4 Tin học quản lý 60 60 45
  Tổng hai năm sau   1.605 1.204
  Tổng 4 năm   2.910 2.183
  Kinh tế   1.935 1.451
  Chính trị   270 203
  Ngoại ngữ   390 293
  Toán, tin học   225 169
  Môn khác   90 68
         
  Tỷ lệ giờ học kinh tế     66%
  Tỷ lệ giờ học chính trị     9%
  Tỷ lệ giờ học ngoại ngữ     13%
  Tỷ lệ giờ học môn khác     11%

(Nguồn: Nhà xuất bản Tri Thức cung cấp)