- Khả năng canh tân chương trình ở Việt Nam
Khả năng canh tân chương trình ở Việt Nam hiện nay bị giới hạn bởi mô hình tổ chức đại học ở Việt Nam.
Trước tiên để hiểu những hạn chế gặp phải cần hiểu về những yếu kém của đại học Việt Nam, và do đó trước tiên cần biết qua về mô hình đại học Mỹ mà các nước trên thế giới hiện nay đang noi theo, kể cả đại học ở Pháp (Xem bài “Tìm hiểu về Đại học Mỹ” của cùng tác giả để biết thêm chi tiết).
Đại học Mỹ (university) có thể đều mang tính tổng hợp, có nhiều trường thành viên (colleges), và mỗi trường lại có nhiều phân khoa khác nhau. Thí dụ Đại học Northwestern có nhiều trường (college) như:
Trường khoa học tự nhiên và nhân văn (school of arts and science, đây là chữ thường dùng cho trường liberal arts, tức là gồm các ngành khoa học cơ bản như toán, vật lý, hoá học, và khoa học nhân văn như sử, kinh tế, chính trị, tâm lý, v.v.)
Trường thương mại (school of business)
Trường sư phạm (school of education)
Trường kỹ sư (school of engineering)
Trường luật
Trường y khoa
Trường âm nhạc
v.v.
Học sinh các trường chuyên nghiệp phải học chương trình kiến thức cơ bản ở Trường khoa học tự nhiên và nhân văn , mặc dù có khi được châm chước giảm thiểu hơn một chút. Nhiều trường chuyên nghiệp chỉ có ở dạng sau cử nhân, tức là học sinh phải học xong Trường khoa học tự nhiên và nhân văn rồi mới được nhận vào: đấy là trường luật, y khoa, và nhiều nơi là trường thương mại với chương trình MBA.
Với tổ chức như trên, Trường khoa học tự nhiên và nhân văn là linh hồn của giáo dục đại học, vì ở đây có thể dễ dàng thực hiện chương trình kiến thức cơ bản, học sinh các ngành khác nhau có thể học chung và có thể lấy những lớp ở những trường hoặc phân khoa (ngành chính) khác trong cùng trường cho chương trình tự chọn không thuộc ngành chính.
Đại học Việt Nam hiện nay vẫn được tổ chức như là những ốc đảo, ốc đảo về tổ chức và ốc đảo về địa lý (theo nghĩa trường nhân văn ở một nơi, trường luật ở một nơi, trường khoa học tự nhiên, như toán, vật lý, hoá học, sinh học, ở một nơi khác). Khi đại học Việt Nam được tổ chức lại thành các đại học quốc gia như Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội thì việc tổ chức lại chỉ ở cái tên, với một lớp quản lý cao hơn ở phía trên, chương trình của đại học đã không tổng hợp lại, học sinh ở trường này không thể lấy lớp ở trường khác và địa dư khác biệt cũng làm cho việc lấy lớp khó khăn. Ốc đảo về tổ chức cũng không cho phép thầy giáo kết hợp, trao đổi và nghiên cứu chung. Việc tổ chức ốc đảo này tiếp tục vì triết lý giáo dục tổng hợp không được thể hiện trong chương trình giảng dạy ở mỗi trường. Mới đây trường kinh tế rút ra khỏi trường đại học quốc gia thành một trường độc lập. Do đó, việc học toán chẳng hạn, nếu học ở những thầy dạy kinh tế thì rõ ràng là học từ một người chỉ biết sơ về toán. Ngược lại, muốn dạy về kinh tế môi trường mà không biết gì về hoá học hoặc nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc không có cơ hội giao lưu với những người ở những ngành này thì mục đích cũng chẳng khác gì nhằm tạo ra những người khiếm thị.
Dù với những trở ngại này, vẫn có thể canh tân chương trình nếu như lấy triết lý giáo dục đại học là đào tạo ra những người có kiến thức cơ bản.
- Về một trường đại học chất lượng cao ở Việt Nam
Việc thảo luận về một trường đại học chất lượng cao đã được tiến hành ở nhiều nơi tại Việt Nam. Chất lượng cao đòi hỏi một số điều kiện: (1) giáo viên được trả mức lương thỏa đáng để họ không phải dạy thêm và do đó không được phép dạy thêm, (2) điều kiện về trường sở và phương tiện học từ thư viện, máy tính, phòng thí nghiệm phải đầy đủ, (3) số học sinh trên một giáo viên phải thấp, không quá 20, và tất nhiên là (4) sinh viên có trình độ tiếp thu. Nếu chỉ dựa vào điều (1) tới (3), dự toán về một đại học chất lượng cao với 2.000 sinh viên sẽ là 5 triệu USD về đầu tư, và chi phí hằng năm gần 2 triệu USD. Dự toán này dựa trên một số giả định sau:
Lương bao gồm cả tiền hưu trí và bảo hiểm một giáo sư trung bình là 1.000 USD/một tháng. Có người được trả thấp hơn và có người được trả cao hơn. Đây là dự toán thấp nhất để có thể thuê được một người dạy ra trường ở nước ngoài với bằng tiến sĩ.
Số học sinh cao nhất là 20 trên một giáo sư.
Như vậy tính trung bình, tiền học phí hằng năm lên tới khoảng 1.000 USD để trang trải chi phí thường xuyên. Nếu giảm số sinh viên xuống là 10 trên một giáo viên, học phí lên tới khoảng 2.000 USD một năm. Nhưng vấn đề quan trọng và khó khăn hơn cả trong cả hai trường hợp là khả năng tuyển dụng được 100 đến 200 giáo viên có trình độ tiến sĩ.
Dự toán về một đại học chất lượng cao
Dự kiến | ||
Số học sinh | 2.000 | |
Giáo viên (1/20) | 100 | |
Lương tháng | 1.000 | |
Lương năm (USD) | 1.200.000 | |
Giá trị tài sản/chi phí hằng năm | 2,59 | |
Tài sản | Hệ số | USD |
Đất và công trình xây dựng | 0,67619 | 3.380.953 |
Máy móc và sách vở | 0,28571 | 1.428.571 |
Tiền vốn lưu động để chi phí | 0,03810 | 190.476 |
Tổng tài sản | 1,00000 | 5.000.000 |
Chi phí hằng năm | ||
Lương/hưu trí/bảo hiểm | 0,62145 | 1.200.000 |
Dụng cụ văn phòng, sửa chữa | 0,11467 | 221.429 |
Năng lượng | 0,14427 | 278.571 |
Đi lại cho giáo sư | 0,02836 | 54.762 |
Chi phí khác (hoạt động sinh viên) | 0,09125 | 176.190 |
Tổng chi phí thường xuyên | 1,00000 | 1.930.952 |
Phụ lục. Chương trình đại học 4 năm ngành kinh tế ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tiết gồm 45 phút học. Chương trình sau đây là chương trình kinh tế 4 năm đại học ở Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (4) . Tất cả các lớp đều có tính bắt buộc.
2 năm đầu | Tiết | Tiết | Giờ | |
1 | Lịch sử các học thuyết kinh tế | 45 | ||
Quản trị học | 45 | |||
Kinh tế vi mô | 60 | |||
Kinh tế vĩ mô | 60 | |||
Xác suất thống kê | 60 | |||
Kế toán | 60 | |||
Địa lý kinh tế | 45 | |||
Quy hoạch tuyến tính | 60 | |||
Marketing căn bản | 45 | |||
Kinh tế công cộng | 30 | |||
Kinh tế phát triển | 30 | |||
Dân số học | 30 | |||
Luật kinh tế | 60 | |||
Tổng lớp kinh tế | 630 | 473 | ||
2 | Triết học Marx -Lenin | 75 | ||
Kinh tế chính trị (i) | 45 | |||
Kinh tế chính trị (ii) | 30 | |||
Tổng lớp chính trị | 150 | 113 | ||
Đại số tuyến tính | 45 | |||
Giải tích | 60 | |||
Tin học căn bản | 60 | |||
Tổng lớp toán, tin học | 165 | 124 | ||
3 | Ngoại ngữ (i) | 120 | ||
Ngoại ngữ (ii) | 150 | |||
Tổng ngoại ngữ | 270 | 203 | ||
4 | Lịch sử triết học | 30 | ||
Logic học | 30 | |||
Tâm lý học | 30 | |||
Tổng các môn khác | 90 | 68 | ||
Tổng hai năm đầu | 1.305 | 979 |
2 năm cuối | Tiết | Tiết | Giờ | |
1 | Lịch sử kinh tế quốc dân Việt Nam | 45 | ||
Kinh tế quốc tế (i) | 45 | |||
Lý thuyết thống kê | 60 | |||
Lý thuyết tài chính tiền tệ | 75 | |||
Kinh tế vi mô (ii) | 60 | |||
Phân tích lợi ích và chi phí | 45 | |||
Kinh tế các nước châu Á TBD | 45 | |||
Kinh tế lao động | 45 | |||
Kinh tế quốc tế (ii) | 45 | |||
Dự báo | 60 | |||
Kinh tế vĩ mô (ii) | 60 | |||
Kinh tế phát triển | 45 | |||
Kinh tế nông nghiệp | 45 | |||
Kinh tế tài nguyên và môi trường | 45 | |||
Phân tích kinh tế dự án | 45 | |||
Kinh tế Việt Nam | 30 | |||
Kinh tế công cộng | 45 | |||
Tài chính quốc tế | 45 | |||
Kế hoạch hoá và chính sách kinh tế | 45 | |||
Chính sách thương mại và công nghiệp | 45 | |||
Hạch toán quốc gia | 45 | |||
Tiền tệ và ngân hàng | 45 | |||
Mô hình hoá | 45 | |||
Thị trường chứng khoán | 45 | |||
Làm luận văn | ||||
Báo cáo hoặc thi | 150 | |||
Tổng kinh tế | 1.305 | 979 | ||
2 | Lịch sử Đảng | 60 | ||
Chủ nghĩa xã hội khoa học | 60 | |||
Tổng chính trị | 120 | 90 | ||
3 | Ngoại ngữ (i) | 60 | ||
Ngoại ngữ (ii) | 60 | |||
Tổng ngoại ngữ | 120 | 90 | ||
4 | Tin học quản lý | 60 | 60 | 45 |
Tổng hai năm sau | 1.605 | 1.204 | ||
Tổng 4 năm | 2.910 | 2.183 | ||
Kinh tế | 1.935 | 1.451 | ||
Chính trị | 270 | 203 | ||
Ngoại ngữ | 390 | 293 | ||
Toán, tin học | 225 | 169 | ||
Môn khác | 90 | 68 | ||
Tỷ lệ giờ học kinh tế | 66% | |||
Tỷ lệ giờ học chính trị | 9% | |||
Tỷ lệ giờ học ngoại ngữ | 13% | |||
Tỷ lệ giờ học môn khác | 11% |
(Nguồn: Nhà xuất bản Tri Thức cung cấp)